CƯ SĨ DIỆU ÂM

KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT

.:: Thư trả lời Niệm Phật ::.

***

Thánh Hiệu Đức Phật Giáo Chủ Cơi Tây Phương

(A-mi-đà & A-di-đà)

Hỏi:
Niệm A DI ĐÀ PHẬT hay A MI ĐÀ PHẬT, rất cám ơn.

Phạm Hữu Nghị

Trả lời:

Niệm Phật, chính yếu là ḷng thành, chớ chấp vào từ ngữ.

 

Phật không chấp nên vô ngại. C̣n chúng sanh cứ chấp măi nên bị chướng ngại! Từ chỗ cố chấp này mà sanh ra đủ thứ tranh luận! "Sự" mà c̣n chướng ngại như vậy, th́ "" c̣n bị rắc rối nhiều hơn nữa, biết đến bao giờ tâm mới thanh tịnh?!

Trước tiên, xin đưa ra vài việc điển h́nh:

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dạy người niệm "Nam-mô Bụt A-Di-Đà", c̣n hàng trăm vị Ḥa Thượng khác khuyên niệm "Nam-mô A-Di-Đà Phật". Sư Ông Nhất Hạnh không bao giờ chỉ trích người niệm "Nam-mô A-Di-Đà Phật", các vị Ḥa Thượng khác cũng không có chỉ trích cách niệm "Nam-mô Bụt A-Di-Đà".

Đại lăo HT Thích Trí Tịnh, và HT Thích Thiền Tâm có chủ trương niệm "Nam-mô A-Mi-Đà Phật", nhưng ai muốn niệm theo kiểu nào các Ngài cũng hoan hỉ, chưa bao giờ Đại Lăo HT la rầy một Phật tử niệm "Nam-mô A-Di-Đà Phật". Trong khi đó, hàng trăm vị Ḥa Thượng khác vẫn giữ nguyên câu Phật hiệu "Nam-mô A-Di-Đà Phật", và các Ngài cũng chưa bao giờ phê phán cách niệm "Nam-mô A-Mi-Đà Phật" của HT Thích Trí Tịnh.

Tại sao vậy? V́, phải chăng, các vị đă thấu được lư "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng" (tạm dịch, cái ǵ có h́nh tướng đều là giả tạm). C̣n phàm phu chúng ta th́ cố chấp từng chút. Ai cũng cho ḿnh là đúng, người khác sai, nên gây ra không biết bao nhiêu sự thị phi, tranh căi...

Càng tranh căi càng sai. Vừa phí uổng thời giờ, vừa tán loạn cái tâm!

Nhưng thực tế th́ sao? Xin thưa rằng, đă là Phật th́ đâu c̣n danh tánh, h́nh tướng... ǵ nữa. V́ chúng sanh cần phải có những thứ đó để nương dựa nên quư Ngài mới thị hiện ra danh tánh, h́nh tướng... cho chúng sanh có chỗ quy y. Như vậy, v́ chúng sanh mà chư Phật có tên, có h́nh tướng, đó chỉ là phương tiện để độ chúng sanh mê muội như chúng ta mà thôi. Trong kinh Phật gọi là, "Tùy chúng sanh tâm, ưng sở tri lượng" (Tùy theo chúng sanh muốn ǵ, các Ngài thị hiện ra để độ).

Trong kinh nói, Bồ-tát đă phá tứ tướng, nghĩa là không c̣n tướng Ngă, tướng Nhân, tướng Chúng-sanh, tướng Thọ-giả nữa. Không những thế, Bồ-Tát c̣n phá đến tứ kiến, cao hơn tứ tướng, nghĩa là cái nghĩ tưởng về bốn tướng cũng không c̣n nữa. Nếu không được vậy th́ chưa phải là Bồ-tát. Bồ tát mà c̣n vậy rồi, huống chi, khi chứng đắc đến quả vị Phật, là quả vị giác ngộ hoàn toàn rồi. Vậy th́, thực tế, suy cho cùng lư, Phật làm ǵ c̣n có tên? Có tên tức là c̣n có tướng Ngă, tướng Ngă, tướng Chúng sanh, tướng Thọ giả, có đủ tứ tướng sao?

Niệm một danh hiệu Phật là niệm ngay cái tánh đức của chính ḿnh. Nhưng v́ chúng sanh không biết cái tánh đức của ḿnh là ǵ, cho nên niệm danh hiệu một vị Phật cho tánh đức hiển lộ.

Như vậy, niệm Phật chính là niệm tâm. Niệm tâm th́ tâm phải niệm tâm, chứ không phải miệng xưng danh hiệu. Miệng xưng danh hiệu chỉ là phương tiện giúp cái cho cái tâm nó niệm. Nói cho dễ hiểu là người niệm Phật cần phải thành tâm, chí thiết. Khi tâm nhiếp lại, nghĩ, tưởng, quán đến vị Hóa-chủ Tây-phương Cực-lạc, th́ niệm "A-Di-Đà Phât" hay "A-Mi-Đà Phât", danh xưng nào lại không phải là vị Hóa chủ Tây phương cực lạc?

Niệm Phật là Tâm niệm Phật chứ không phải là cái miệng xưng danh hiệu. Hăy nghĩ thử, nếu mục đích là cái danh hiệu, th́ người Tàu niệm tiếng Tàu, người Thái niệm tiếng Thái, người Việt niệm tiếng Việt, mỗi dân tộc niệm một ngôn ngữ riêng, âm thanh hoàn toàn khác lạ, chẳng lẽ ḿnh th́ đúng c̣n họ th́ sai sao? Chẳng lẽ họ cũng tu pháp đó mà đành phải lạc đến chỗ khác sao? Chẳng lẽ pháp tu niệm Phật chỉ dành cho một dân tộc đặc biệt nào đó trên quả địa cầu này sao? Nên nhớ, đại thệ của A-Di-Đà Phật cứu đến muời phương pháp giới chúng sanh chứ không phải chỉ riêng quả địa cầu này đâu. (Quả địa cầu trong kinh gọi là Nam-diêm-phù-đề, thật quá nhỏ so với pháp giới!).

Mục đích là thành Phật. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật dạy, muốn thành Phật chúng sanh hăy mau t́m đường văng sanh Cực lạc quốc. Như vậy, pháp niệm Phật là một phương tiện cho chúng sanh nghe đến để biết đường đi về tới Tây phương tịnh độ. Trong kinh Vô Lượng Thọ có câu "Văn danh, đắc độ". Nghe danh hiệu A-Di-Đà Phật, gọi là "Văn danh". Được văng sanh về Tịnh độ, gọi là "Đắc độ". Hay gọi là, "Tùy văn nhập quán". Nghe danh hiệu Phật, gọi là "Tùy văn"; nhờ đó mà biết rơ đường văng sanh Cực-lạc quốc, tức là "Nhập quán".

Như vậy, chúng ta niệm Phật cách nào mà biết rơ đường về Tây-phương cực lạc là niệm đúng. Nếu người đă quen và nhiếp tâm vào "A-Di-Đà Phật" th́ hăy tiếp tục niệm "A-Di-Đà Phật". Nếu người nào nghe đến "A-Mi-Đà Phật" mà cảm ứng hăy niệm "A-Mi-Đà Phật". Xin chớ chấp trước.

Chấp trước là sai! Hay nói rơ hơn, cố chấp vào ư muốn của ḿnh th́ nhất định bị lạc vào Tà kiến!

Phật có lời dạy rằng, "Dĩ âm thanh cầu Ngă, dĩ sắc tướng cầu Ngă,  thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như-Lai". (Tạm dịch, người mà chấp vào h́nh tướng mà cầu Ta, chấp vào âm thanh mà cầu Ta, người đó đang tu theo tà đạo, không thể thấy được Như Lai). Câu kinh này ứng dụng tại đây rất hay.

"Dĩ sắc tướng cầu Ngă" tức là cố chấp vào h́nh tướng mà tu hành. Nói rơ hơn, thấy ta có tu, người khác không tu; ta tu giỏi, người khác tu dở; ta là tốt, người khác xấu; ta là nhất không ai bằng, cống cao ngă mạn, cạnh tranh ganh tỵ...  th́ đây là điều không tốt.

"Dĩ âm thanh cầu Ngă" chính là sự cố chấp vào ngôn ngữ. Ví dụ, người chấp vào danh hiệu "A-Di-Đà Phật" mà chê bai người niệm "A-Mi-Đà Phật". Hay ngược lại, người chỉ thích niệm "A-Mi-Đà Phật" mà t́m cách chống báng người niệm "A-Di-Đà Phật". Th́ những người này bị vướng đến cái nạn "Dĩ âm thanh cầu Ngă". Người tu hành chân chánh phải tránh.

Nhắc lại, niệm Phật là tâm niệm chứ không phải là miệng niệm. Cái miệng niệm Phật chẳng qua là phương tiện nhắc nhở cái tâm quay về với chơn Tâm Tự Tánh, quay về với Phật Tánh của chính ḿnh. Một người, khi niệm Phật đến chỗ "Vô Niệm", th́ xin hỏi rằng, c̣n đâu là "Di" c̣n đâu là "Mi" nữa?

Ngài Trung Phong quốc sư có nói, "Niệm đáo tâm không Phật diệt vong", (Tạm dịch, niệm Phật đến cảnh tâm vắng lặng như chơn không, th́ Phật cũng không c̣n nữa). Đây chính là Niệm Phật đến chỗ "Vô Niệm", lúc đó mới quán chiếu rơ ràng, Phật chính là Tâm, Tâm chính là Phật, ngoài Tâm không Phật, ngoài Phật không Tâm, th́ c̣n ǵ để phân biệt? Phật đâu c̣n ở đây, ở kia? Phật đâu c̣n ở trong, ở ngoài? Phật đâu c̣n có tên tuổi ǵ nữa (mà chấp)?

Thế th́, chúng ta không nên cố chấp vào từ ngữ, âm giọng của thế gian làm chi cho tâm hồn rối bời. Tâm rối bời th́ khó được thanh tịnh giải thoát vậy!

Tùy duyên th́ vô sự, an nhiên. Phan duyên th́ lộn xộn, rắc rối!

 Ví dụ, người thường nhiếp tâm niệm A-Di-Đà Phật, hăy để họ cứ tiếp tục niệm A-Di-Đà Phật (Tùy duyên), họ sẽ dễ được cảm ứng. Biết bao nhiêu người niệm A-Di-Đà Phật đă được văng sanh, không nên khuyên họ thay đổi. Ngàn kinh vạn điển, vô số tượng h́nh, hàng triệu người VN... đều xác định danh hiệu A-Di-Đà Phật, th́ chúng ta hăy an ḷng mà niệm A-Di-Đà Phật.

 Nếu ta cố t́nh thay đổi cách niệm của họ (Phan duyên), làm cho họ mất sức nhiếp tâm, rất khó được cảm ứng. Nhất là lúc lâm chung.

Ví dụ khác, như người thường niệm "A-Di-Đà Phật", đến lúc lâm chung, nếu người hộ niệm đến niệm "A-Mi-Đà Phật". Nghĩa là, niệm khác cách niệm thường ngày của của người bệnh, sẽ làm họ bị xáo trộn, không nhiếp tâm, có thể gây nên phiền năo rất lớn, chính v́ vậy mà dễ mất phần văng sanh! Nhân quả này người hộ niệm phải chịu.

Người tu hành, làm một việc ǵ cũng cần nghĩ đến quả báo.

Một ví dụ nữa, một người bệnh muốn niệm "A-Mi-đà Phật", khi lâm chung lại mời BHN thường ngày niệm "A-Di-đà Phật" đến hộ niệm, th́ cũng dễ sanh ra vấn đề...

 Nếu niệm theo người hộ niệm th́ người bệnh bị phiền năo, đă phiền năo th́ khó văng sanh.

 Nếu BHN v́ muốn thuận theo người bệnh mà phải đổi cách niệm thường ngày của ḿnh. Nghĩa là thay v́ niệm "A-Di-đà Phật", họ phải niệm "A-Mi-đà Phật", làm cho chính những người hộ niệm rất khó nhiếp tâm. Không nhiếp tâm được th́ cũng dễ sanh phiền năo. Niệm Phật mà bị phiền năo th́ công đức hộ niệm sẽ bị suy giảm rất nhiều, rất khó được tương ưng.

Xin nhắc lại rơ ràng điều này, chúng ta đều là phàm phu, nên rất cần sự thuận duyên hỗ trợ. Mỗi một sự thay đổi đều có thể gây sự xáo trộn. Nếu bị xáo trộn ngay lúc lâm chung th́ thật là bất hạnh lắm vậy!

Chính v́ thế, để tránh sự xáo trộn này, chúng ta nên "Tùy hỉ công đức""Hằng thuận chúng sanh", là điều tốt đẹp. Nghĩa là, niệm cách nào cũng tốt cả, chúng ta cần tán thán người niệm Phật. Đó là "Tùy hỉ công đức". Đi đến một đạo tràng, họ niệm sao ḿnh niệm vậy, đừng cố t́nh thay đổi hay phê phán cách niệm của họ, đó là  "Hằng thuận chúng sanh".

Thấy người tu hành, niệm Phật cầu văng sanh, ta nên tán thán, ủng hộ. Điểm chính yếu chính là TÍN-NGUYỆN-HẠNH, đây là điều "Bất biến", nên khuyến tấn, hỗ trợ. C̣n h́nh thức th́ có thể uyển chuyển, hay gọi "Tùy duyên". Mỗi người đều cảm ứng đến một phương pháp riêng. Hăy nương theo điều thuận lợi riêng của họ để giúp họ thăng tiến. 

Đừng quá cố chấp vào danh tự, cố chấp vào h́nh thức rồi phân biệt, chê bai, đúng sai... thật tế, việc này không đem lại ích lợi ǵ cả! Ngược lại, c̣n gây thêm xáo trộn, tranh luận, chia rẽ, khiến ḷng người ly tán, thối tâm tu hành, làm cho Phật pháp đang trong cơn mạt pháp lại càng bị mạt nhanh hơn!

Tuy nhiên, riêng cá nhân của mỗi người phải tự quyết định một hướng niệm.  Đừng nên chao đảo. Cái ǵ thuận với ḿnh, cảm ứng tốt với ḿnh, th́ đó là Chánh Pháp của ḿnh vậy.

Ấn Tổ khuyến khích thành lập thành nhóm niệm Phật nhỏ đề cùng tu chung. Nhóm cộng tu nhỏ th́ ít phiền năo, bớt việc, dễ hội tụ những người đồng nguyện, đồng hạnh, đồng cách tụng niệm, không làm pháp sự, không làm Phật sự, không đi hóa duyên, giảm chế lễ lộc, ngày ngày cùng nhau niệm Phật là tốt nhất. Được vậy, sẽ dễ dàng hỗ trợ cho nhau, giúp nhau cùng tu, sự tiến tu đạo nghiệp sẽ giảm bớt chướng ngại. Khi hữu sự, cụ thể như có người lâm chung, sẽ cùng nhau hộ niệm tốt, mới giúp nhau một cách tích cực và hiệu quả vậy.

 A-Di-Đà Phật.

Diệu Âm

(17/05/09)